List sách

17 sách hay về triết học phương Tây nên đọc

17 sách hay về triết học phương Tây. Khuyên đọc quyển Từ Điển Triết Học Tây Phương, Suy Tưởng và Hành Trình Khám Phá Thế Giới Triết Học Phương Tây.

Đại Cương Triết Học Tây Phương

Đại Cương Triết Học Tây Phương

Lịch sử triết học Tây phương đã tồn tại trên dưới 25 thế kỷ. Trong lịch sử triết học Tây phương, nếu Thales là triết gia đầu tiên vì ông bắt đầu nhìn ra thế giới thì Socrates là triết gia và hiền giả vĩ đại nhất vì ông bắt đầu nhìn vào con người.

Cuốn sách này chỉ giới hạn đối tượng độc giả trong những người muốn có kiến thức tổng quát và căn bản về triết học hoặc muốn sắp xếp những ý tưởng của mình đã biết thành hệ thống mạch lạc và thuận lý. Vì thế, nó nhắm tới 3 mục đích:

  • 1. Giới thiệu khá chi tiết một số lĩnh vực chính của triết học cùng các triết gia liên hệ, có những đóng góp quan trọng;
  • 2. Trình bày đại cương một số chủ đề kèm theo các luận cứ được họ đề xuất;
  • 3. Đưa ra những miêu tả tổng quát và ngắn gọn các khái niệm cùng các thách thức cơ bản qua đó triết học triển khai qua nhiều thế kỷ, để làm bối cảnh trình bày.

Từ Điển Triết Học Tây Phương – Từ Điển Triết Học Gadamer

Từ Điển Triết Học Tây Phương – Từ Điển Triết Học Gadamer

“Từ Điển Triết Học Gadamer” có tác dụng như là một điểm quy chiếu quan trọng, hỗ trợ những ai muốn nắm vững Gadamer và toàn bộ lĩnh vực thông diễn học triết học. Đó cũng sẽ là một sự trợ giúp giá trị dành cho những ai cần thông tin về nhiều nguồn gốc tạo nên công trình của Gadamer.

Hans-Georg Gadamer (1900-2002): Trung tâm điểm của sự nghiệp Gadamer là sự biện minh cho bản thân triết học trong một thế giới tinh thần bị thống trị quá thường xuyên bởi những thực hành và những thể thức của khoa học tự nhiên. Với Gadamer, sự thực hành đáng quý của thông diễn học – nhưng hoàn toàn bị lãng quên vào thời hiện đại cho đến khi được phục hồi vào thế kỷ 19, đã chứng minh rằng sự thông hiểu của con người không thể được tóm tắt trong một nhóm các quy tắc hay phương pháp luận; nó vận hành trong mọi phương diện của những nỗ lực của ta nhằm làm cho thế giới trở nên sáng rõ. Bởi lý do đó, nghệ thuật và tính chất nghệ thuật của ngôn ngữ nói cho ta biết về thế giới và về chính ta cũng nhiều như khoa học tự nhiên vốn được tôn sùng hơn. Thành công lớn lao nhất của Gadamer là dùng thông diễn học để tái định vị các khoa học nhân văn…

Hành Trình Khám Phá Thế Giới Triết Học Phương Tây

Hành Trình Khám Phá Thế Giới Triết Học Phương Tây

Triết học hiện diện trong cuộc sống hàng ngày của con người. Những suy nghĩ và hành vi cũng như những thắc mắc và chủ đề trò chuyện của chúng ta thông thường là thấm đẫm ý nghĩa triết lý.

Một khi đã biết về lịch sử triết học và nếu chú ý, bạn sẽ nghe được tiếng nói của các triết gia trong các câu chuyện hàng ngày, trên báo chí, truyền hình và trong những biến động xã hội diễn ra khắp mọi nơi. Triết gia có thể dùng những ngôn từ trừu tượng để theo đuổi các ý tưởng có vẻ rất mơ hồ, nhưng những dẫn xuất của các ý tưởng và ngôn từ ấy luôn đề cập đến mọi vấn đề của đời thường và liên quan sâu sắc đến đau khổ và hạnh phúc của mỗi con người.

Cuốn sách này là một cẩm nang hướng dẫn tìm hiểu lịch sử triết học phương Tây, từ thời kỳ cổ đại của văn minh Hy Lạp cho đến những diễn biến mới nhất của thế giới triết học trong thế kỷ 20. Mỗi chương sách đều kèm theo các câu hỏi để hệ thống hóa kiến thức và mở rộng tầm suy nghĩ, đây là một giáo trình hàm súc và sinh động dành cho mọi độc giả.

Suy Tưởng

Suy Tưởng

Nghe nói Marcus Aurelius thích trích dẫn câu nói trên của Plato, và những ai đã từng viết về ông khó cưỡng lại vận nó vào bản thân Marcus. Và tất nhiên, nếu là đi tìm ông vua-triết gia của Plato bằng xương bằng thịt thì chúng ta cũng khó tìm được ai tốt hơn Marcus, người cai trị Đế quốc La Mã gần hai thập niên, và là tác giả cuốn Meditation (Suy tưởng) bất hủ.

Thế nhưng danh hiệu này chắc chắn bản thân Marcus sẽ bác bỏ. Ông không bao giờ nghĩ mình là một triết gia. Ông chỉ tự nhận là một học trò cần mẫn và người thực hành chưa hoàn hảo của một triết thuyết do những người khác lập ra. Còn về ngôi vua, nó đến một cách gần như tình cờ. Khi Marcus Annius Verus sinh ra, năm 121 CN, những người có mặt đã tiên đoán một sự nghiệp sáng chói trong Viện Nguyên lão của bộ máy cầm quyền. Họ không thể nào đoán được số phận đã dành cho ông ngôi hoàng đế, và trong trí tưởng tượng của họ không thể nào có cảnh tượng người kị sĩ đồng cô độc giơ tay vẫy chào chúng ta từ trên đỉnh đồi Capitol La Mã qua hai nghìn năm..

Minh Triết Phương Tây

Minh Triết Phương Tây

Wisdom of the West, xin chuyển ngữ là Minh Triết phưong Tây, trước tác ông viết năm 1959 lược lại tổng thể nền văn hóa Tây phương từ thời cổ đại 5,6 trăm năm trước Công Nguyên cho đến thế kỷ 20.

Công trình này trải dài trên hai ngàn năm trăm năm, đặt trọng tâm trên tư tưởng và triết học. Những điều này không trên trời rơi xuống, là những sản phẩm của con người sống và tư duy trong thời đại của mình. Công trình giải mã, xếp đặt, và phê phán của ông đòi hỏi một sự hiểu biết rộng và sâu về lịch sử và xã hội Âu châu trên hai bờ Đông và Tây của Địa Trung hải.

Bertrand Russell không chỉ liệt kê niên biểu, trình bày lại những đề xuất, những sáng tạo về tư duy triết lý. Với cá tính, và ông trình bày chúng dưới góc nhìn riêng biệt của ông, khi hóm hỉnh theo thế cách uy-mua (hài hước) đặc thù của người Anh, khi phê phán không khoan nhượng với những gì đi ngược lại con đường duy lý khoa học. Nhưng rồi cuối cùng, ông vẫn giữ được hơi văn thấm đẫm chất con người khai mở, rộng lượng, và không có cái ảo tưởng độc quyền chân lý.

Trích Lời người chuyển ngữ

Giáo Trình Triết Học Phương Tây Hiện Đại

Giáo Trình Triết Học Phương Tây Hiện Đại

Triết học phương Tây hiện đại (hiểu theo nghĩa ngoài mácxít) là sự phát triển tư tưởng triết học phương Tây trong điều kiện mới, theo tinh thần mới, tinh thần “phi cổ điển”, rà soát lại những vấn đề truyền thống, bắt đầu từ Hy Lạp cổ đại.

Quá trình này diễn ra cùng với xu thế phi cổ điển hóa trong văn hóa châu Âu, thông qua văn chương, nghệ thuật, âm nhạc và các hoạt động sáng tạo khác, phản ánh sự tái bố trí lực lượng chính trị – xã hội tại châu Âu, được nhen nhóm ngay từ thời Phục hưng (thế kỷ XIV–XVI), được tiếp sức bởi các cuộc cách mạng tư sản và sự ra đời nhà nước kiểu mới tại một số nước Tây Âu, thay thế chế độ quân chủ phong kiến ngự trị hàng ngàn năm.

Trong một chừng mực nào đó, có thể nói, giáo trình này góp phần hệ thống hóa và đưa ra luận giải mới về sự ra đời và phát triển, đặc trưng và vai trò của lịch sử triết học phương Tây hiện đại; về những tư tưởng, quan niệm mà các trường phái kế thừa của quá khứ và của thời đại thể hiện đồng tâm dưới các phạm trù, nguyên lý, nguyên tắc.

Đặc biệt, những người biên soạn đã tổng hợp bức tranh tư tưởng triết học phương Tây hiện đại thành nhóm bốn khuynh hướng chủ đạo: phi duy lý – nhân bản, thực chứng – khoa học, tôn giáo, chính trị – xã hội.

Câu Truyện Triết Học – Đời Sống Và Quan Điểm Của Những Triết Gia Lớn Phương Tây

Câu Truyện Triết Học – Đời Sống Và Quan Điểm Của Những Triết Gia Lớn Phương Tây

Thật tài tình và thú vị khi Will Durant (1886-1981) đặt tên cho công trình lịch sử triết học của mình là “The Story of Philosophy”. Lịch sử triết học vốn khét tiếng là khô khan và nhức đầu! Will Durant có cái nhìn khác: nó rất hấp dẫn, lôi cuốn, nhất là với những ai có tính tò mò, “ham chuyện” như chúng ta. Với ông, ở đây ta có một câu chuyện thật gay cấn và đáng được kể lại cho nhiều người nghe dưới hình thức một câu chuyện!

Viết lịch sử như một câu truyện là một nghệ thuật cao cường của tác giả. Dễ hiểu tại sao “Câu truyện” này lại thành công ngoạn mục đến thế. Từ khi ra mắt vào năm 1926, trong vòng 50 năm (1976) tác phẩm đã được tái bản đến 28 lần, và đến nay (đầu 2008) không biết đã đến lần thứ bao nhiêu!…

Tuy nhiên, Will Durant, xuất thân là một ông nghè triết học của đại học Columbia, Hoa kỳ từ năm 1917, không chỉ khéo léo về phương pháp viết lịch sử triết học như một Câu truyện mà còn có đủ thẩm quyền chuyên môn để hiểu bản chất của lịch sử triết học (Tây Phương) như một câu chuyện. Đó là một câu chuyện đúng nghĩa vì đầy những tình tiết éo le, những thăng trầm kịch tính, những đường chim nẻo nguyệt của tâm thức con người được chưng cất ở mức độ đậm đặc nhất.

… Vì thế, với tấm lòng chân thành và cởi mở của một học giả đích thực, W. Durant xác định rõ mục đích của quyển sách này là làm cho người bình thường hiểu được những ý tưởng cao xa của triết học. Ông xem khoa học như là sự “phân tích”, còn triết học như là sự “tổng hợp”. Vì thế, ông kết luận: “Khoa học là sự mô tả kiểu phân tích, trong khi triết học là sự lý giải kiểu tổng hợp. Vì lẽ một sự kiện không bao giờ là hoàn chỉnh trừ khi được đặt vào mối quan hệ với một mục đích và với cái toàn bộ. Khoa học mang lại cho ta kiến thức, nhưng chỉ có triết học mới có thể cho ta sự hiền minh”.

Cộng Hòa

Cộng Hòa

Cuốn sách được xem là cột mốc lớn của triết học phương Tây. Tác phẩm được trình bày dưới dạng đối thoại giữa Plato và những người khác. Mặc dù chủ đề chính là về một nhà nước lý tưởng nhưng nó cũng xoay quanh giáo dục, tâm lý, đạo đức và chính trị.

Trong các đoạn chính của Cộng hòa, Plato sử dụng những huyền thoại để khám phá bản chất tự nhiên của thực tế, truyền đạt cái nhìn về sự tiên đoán của con người và vai trò của triết học trong việc thiết lập tự do. Ông tưởng tượng ra một cái hang mà những con người bị xiềng xích từ khi mới sinh ra làm bạn với cái bóng của mình và mang họ đến thực tế. Vai trò của triết học, cụ thể là những gì Plato gọi là biện chứng, là đưa con người ra khỏi cái bóng và hướng bản thân họ tới thực tế. Đây là bản chất của việc theo đuổi sự khôn ngoan mà không có nhà nước lý tưởng nào không làm.

Độc giả hiện đại có thể đồng ý với mọi điều Plato nói, cũng như lập luận chặt chẽ, cái nhìn đầy chất thơ vẫn có sức mạnh trong việc kích thích và thách thức. Sức mạnh lâu dài này đã làm của Cộng hòa trở thành một trong những nền tảng của văn hóa phương Tây..

Lịch Sử Triết Học Phương Đông

Lịch Sử Triết Học Phương Đông

Các triết thuyết sách đã hình thành cách đây hàng ngàn năm và không ngừng phát triển cho đến ngày nay. Đặc biệt, một phần vì yếu tố địa lý nên tư tưởng nhân loại từ cổ đại tự nó đã chia ra hai dòng chảy mang nhiều đặc thù khu biệt được quy định bởi các mối quan hệ kinh tế xã hội khác nhau. Trong số đó, có thể kể triết học Ấn Độ xuất hiện từ trước thế kỷ X trước Công nguyên, triết học Trung Quốc có từ thế kỷ VIII trước Công nguyên là hai nguồn tư tưởng chính yếu, tiêu biểu cho tư tưởng phương Đông.

Với quá trình biên soạn công phu, đầy tâm huyết, được chỉnh sửa, bổ sung qua nhiều năm phụ trách giảng dạy đại học, nhà nghiên cứu triết học Nguyễn Đăng Thục đã cho ra mắt độc giả công trình sách “Lịch sử triết học phương Đông” gồm những nội dung sau:

  • Triết học Trung Hoa: từ thời kỳ khởi điểm đến thời kỳ hoàn thiện triết học.
  • Triết học Ấn Độ: Từ Vệ Đà đến Phật giáo nguyên thủy.
  • Triết học phương Đông nói chung từ năm 241 trước Công nguyên đến 907 sau Công nguyên và triết học Trung Hoa cận đại

Thuyết Khắc Kỷ

Thuyết Khắc Kỷ

“Cuốn sách dẫn nhập xuất sắc nhất về thuyết khắc kỷ

Đâu là tốt đâu là xấu? Đầu là quý đâu là tiện? Sinh mệnh này của ta có ý nghĩa gì? Hạnh phúc của ta nằm ở đâu?

Đã có ai đến với cuộc đời này mà không từng băn khoản trăn trở trước những câu hỏi như vậy. Hãy thử một lần cùng các nhà khắc kỷ bước vào hành trình suy tư chiêm nghiệm, để tìm cho mình các câu trả lời. Để thấy rằng trong cõi thể nhân sinh, bản thể, tri giác, thể tạng, linh hồn cũng như số mệnh ta chỉ là một dòng sông huyễn mộng.

Sinh mệnh của ta, đời sống của ta chỉ là một hành trình nơi đất lạ, rồi cuối cùng sẽ chìm vào lãng quên. Để thấy rằng hầu như mọi bất hạnh trên đời đều bắt nguồn từ việc ta nghĩ rằng mình có thể kiểm soát được mọi thứ, trong khi thực ra ta đã đặt lầm hạnh phúc của mình vào những thứ ở ngoài ta, những thứ ta không thể kiểm soát được. Vậy nên chiếc chia khóa cho hạnh phúc không nằm ở đâu khác mà nằm trong chính tư tưởng của ta, chỉ cần ta có thể phân biệt đúng đắn những gì “thuộc về ta” và “không thuộc về ta”.

Chủ Nghĩa Khắc Kỷ – Phong Cách Sống Bản Lĩnh Và Bình Thản

Chủ Nghĩa Khắc Kỷ – Phong Cách Sống Bản Lĩnh Và Bình Thản

“Nếu bạn đau khổ bởi bất cứ điều gì từ bên ngoài, thì nỗi đau của bạn không do điều đó gây ra, mà do cách bạn nhìn nhận và phản ứng với điều đó. Và bạn hoàn toàn có quyền rút lại sự phản ứng này vào bất cứ giây phút nào.”

Đây là câu nói của hoàng đế La Mã Marcus Aurelius, người đồng thời cũng là một trong những triết gia đại diện lớn nhất của chủ nghĩa khắc kỷ.

Tôi luôn nghĩ một trong những nguyên nhân chính khiến con người cảm nhận sự bất hạnh, là việc họ không chấp nhận cách thực tế đang diễn ra nếu đó là thực tế không như mong muốn của họ, và họ tìm cách chối bỏ hoặc chống lại nó.

Chủ nghĩa khắc kỷ dạy ta phải tương tác với cách thế giới khách quan đang vận hành theo cách riêng của nó, thay vì bắt nó phải vận hành theo cách ta mong muốn..

Bàn Về Tự Do

Bàn Về Tự Do

John Stuart Mill (sinh ngày 20 tháng 5 năm 1806 – mất ngày 8 tháng 5 năm 1873), thường được viết dưới tên J. S. Mill, là nhà triết học, kinh tế chính trị và là công chức người Anh. Là một trong những nhà tư tưởng gây ảnh hưởng nhất lịch sử chủ nghĩa tự do, ông đóng góp trong nhiều lĩnh vực như lí thuyết xã hội, kinh tế chính trị, lý thuyết chính trị, và kinh tế chính trị. Mill được coi là “Nhà triết học Anh ngữ lớn nhất thế kỉ 19”, Tư tưởng của ông về tự do bảo vệ cho quyền tự do cá nhân đối lập với mô hình nhà nước vô hạn và kiểm soát xã hội.

-Wikipedia-

Trung tâm điểm của Bàn về Tự do là mối quan hệ của cá nhân đối với xã hội. Luận điểm xuất phát: tự do chính trị lẫn xã hội của cá nhân đang bị đe dọa vì ngày càng bị xã hội giới hạn. Theo Mill, sở dĩ tự do này cần phải được bảo vệ trước sự can thiệp của xã hội vì nó là điều kiện cơ bản cho sự tiến bộ xã hội và, do đó, cho hạnh phúc của cộng đồng chứ không vì một mục đích nào khác. Vì thế, Mill đề ra một nguyên tắc – tạm gọi là “nguyên tắc tự do” – để xác định ranh giới của quyền lực hợp pháp và hợp lý của xã hội, theo đó, tự do cá nhân chỉ được phép bị giới hạn với điều kiện giúp cho xã hội tự bảo vệ và bảo vệ những người khác.

Bùi Văn Nam Sơn

Mọi người đều biết người chiến sĩ vĩ đại nhất cho các quyền tự do dân sự và tự do trí tuệ, người đã phát biểu những nguyên lý rõ ràng nhất và bằng cách đó, lập ra nền tảng của chủ nghĩa tự do hiện đại là John Stuart Mill, tác giả Tiểu luận Bàn về Tự do (On Liberty). Cuốn sách này – tác phẩm ngắn vĩ đại này – như Sir Richard Livingstone đã gọi một cách chính xác – được xuất bản cách đây 133 năm.

Isaiah Berlin

Thậm chí đến ngày nay, tác phẩm Bàn về Tự do vẫn giữ nguyên giá trị như là biểu hiện tốt nhất và hoàn chỉnh nhất về niềm tin vào sự tiến bộ của nhân loại bằng sự tự do tư tưởng. Trong mọi nước và mọi thời, chưa có quyển sách nào trình bày rõ ràng và bảo vệ kiên quyết cho học thuyết về tự do cá nhân đến như thế.

J. S. Shapiro

Tôi Là Ai – Và Nếu Vậy Thì Bao Nhiêu

Tôi Là Ai – Và Nếu Vậy Thì Bao Nhiêu

Có rất nhiều cuốn sách về triết học, nhưng Tôi là ai – và nếu vậy thì bao nhiêu? là một sự khác biệt. Trước nay chưa từng có một ai dẫn dắt người đọc đến với những câu hỏi lớn của triết học bằng một cách am tường chuyên môn, đồng thời nhẹ nhàng tinh tế như vậy.

Thông qua môn khoa học nghiên cứu não bộ, tâm lý học, lịch sử, và thậm chí văn hóa đại chúng (pop-culture), triết gia đương đại người Đức Richard David Precht đã khéo léo soi sáng những vấn đề ở tâm điểm của tồn tại con người như: Sự thật là gì? Cuộc sống có ý nghĩa gì? Tại sao tôi nên tốt? và trình bày chúng qua lối văn ngắn gọn, thông tuệ, uốn hút. Kết quả là một chuyến du hành xuyên lịch sử triết học và một dẫn nhập sáng tỏ vào những nghiên cứu hiện thời về não bộ.

Tôi là ai – và nếu vậy thì bao nhiêu? đích thực là một cuốn sách xuất sắc để tiếp cận triết học. Cuốn sách như một lăng kính vạn hoa của những vấn đề triết luận, những kiến thức thú vị và hài hước, các vấn đề thuộc môn thần kinh học và sinh vật học cũng như nghiên cứu tâm lý học.

Sách chia được chia làm ba phần:

  • 1) Tôi có thể biết gì? – tập trung vào các mô tả não bộ, bản tính cũng như phạm vi của tri thức nhân loại, khởi đầu từ các câu hỏi được mổ xẻ bởi Kant, Descartes, Nietzsch, Freud, và các triết gia khác.
  • 2) Tôi nên làm gì? – giải quyết các vấn đề đạo đức và luân lý, sử dụng các nghiên cứu thần kinh học và xã hội học để lý giải tại sao chúng ta có thiện cảm với người khác và buộc phải hành động có đạo đức. Các cuộc tranh luận về trợ tử, nhân bản vô tính và những chủ đề gây tranh cãi khác.
  • 3) Tôi có thể hy vọng gì? – xoay quanh những câu hỏi quan trọng nhất của cuộc đời: Hạnh phúc là gì và tại sao chúng ta yêu? Có Chúa không và chúng ta có thể chứng minh sự tồn tại của Chúa như thế nào? Tự do là gì? Mục đích của cuộc sống là gì?

Với chủ đích dành cho giới trẻ, cuốn sách Tôi là ai – và nếu vậy thì bao nhiêu? là chuyến khám phá hồi hộp, thông minh, hài hước và thú vị xuyên qua thế giới bộn bề kiến thức để đến với chính bản thể con người!

Những Tìm Sâu Triết Học

Những Tìm Sâu Triết Học

Ngay sau khi xuất bản vào năm 1953, Những Tìm Sâu Triết Học của Ludwig Wittgenstein đã được ca ngợi là một kiệt tác, và những năm tiếp theo đó đã xác nhận đánh giá ban đầu này. Ngày nay nó được thừa nhận rộng rãi là tác phẩm triết học quan trọng nhất của thế kỷ XX.

Bản dịch tiếng Việt này đã dựa trên ấn bản lần tư, do hai chuyên gia chuyên về Wittgenstein là Peter Hacker và Joachim Schulte, họ đã thêm những thay đổi biên tập quan trọng vào trong các ấn bản trước của tác phẩm này nhằm thể hiện ý định ban đầu của Wittgenstein: sắp xếp lại các nốt của Wittgenstein, chỉnh sửa cho bản gốc Đức, và đánh số lại tất cả các nhận xét trong Phần 2 đồng thời đặt tên lại là “Triết học Tâm lý – Một phân đoạn”. Các thay đổi, chỉnh sửa sâu rộng cũng áp dụng cho cả bản dịch tiếng Anh ban đầu của G. E. M. Anscombe.

Được coi là một triết gia vĩ đại nhất của thế kỷ 20, Ludwig Wittgenstein đóng vai trò trung tâm, gây tranh cãi, trong triết học phân tích thế kỷ 20. Hiện nay, ông vẫn tiếp tục ảnh hưởng đến tư tưởng triết học trong các chủ đề đa dạng như logic và ngôn ngữ, nhận thức và ý định, đạo đức và tôn giáo, mỹ học và văn hóa.

Theo Stanford Encyclopedia of Philosophy – Mục Wittgenstein

Chủ nghĩa vô thần – Dẫn nhập ngắn

Chủ nghĩa vô thần – Dẫn nhập ngắn

“Chủ nghĩa vô thần thường được coi là một niềm tin tiêu cực, đen tối và bi quan, được đặc trưng bởi sự bác bỏ các giá trị và mục đích và sự phản đối quyết liệt đối với tôn giáo.

Chủ nghĩa vô thần: Một giới thiệu rất ngắn được đặt ra để xua tan những huyền thoại xung quanh chủ nghĩa vô thần và cho thấy một cuộc sống không có niềm tin tôn giáo có thể tích cực, có ý nghĩa và đạo đức như thế nào. Nó cũng đối mặt với sự thất bại của các quốc gia vô thần chính thức trong Thế kỉ XX. Cuốn sách trình bày một trường hợp trí tuệ cho chủ nghĩa vô thần, dựa nhiều vào những lí lẽ tích cực cho sự thật của nó cũng như về những lập luận tiêu cực chống lại tôn giáo”.

Các Vấn Đề Của Triết Học – Bertrand Russell

Các Vấn Đề Của Triết Học – Bertrand Russell

Bertrand Russell (1872 – 1970) viết tác phẩm nhập môn triết học lừng danh này năm 1911, từ đó, trong cũng như ngoài các trường Đại học, nhiều thế hệ sinh viên triết đã đọc quyển “Các vấn đề của Triết học” này. Quyển này thuộc về một trong những giai đoạn sáng tác triết học sung mãn nhất của Russell.

Mặc dù quyển sách này viết để giới thiệu cho giới bạn đọc phổ thông – Russell gọi nó là “tác phẩm gây sửng sốt đáng vài xu” – nhưng nó trưng ra nhiều lập trường xác định và giới thiệu nhiều ý tưởng hoàn toàn mới, chẳng hạn về chân lý. Nó làm được như thế một cách sinh động, không giáo điều, không rối rắm, cùng một tính rõ ràng sáng tỏ. Chắc chắn cuốn sách này xứng đáng được hoan nghênh liên tục.

Ngoài tính lợi ích trong việc chỉ ra được những triển vọng không ngờ tới, triết học còn có một giá trị – có lẽ là giá trị chính của nó -nhờ độ lớn lao của những đối tượng mà nó chiêm nghiệm, và sự tự do thoát khỏi những mục tiêu cá nhân và hạn hẹp nhờ sự chiêm nghiệm này. Cuộc đời của con người bản năng bị nhốt trong vòng những mối quan tâm riêng tư, có thể bao gồm gia đình và bạn bè, nhưng ngoại giới không được suy xét tới trừ phi nó thúc đẩy hay cản trở những gì đến trong vòng tròn ước muốn bản năng. Trong một cuộc đời như thế có cái gì đó bồn chồn và hạn hẹp mà so với nó cuộc đời triết lý thì bình lặng và tự do. Thế giới riêng tư của những quan tâm bản năng là một thế giới nhỏ nhoi, bị nhấn vào một thế giới uy lực và lớn lao mà sớm hay muộn cũng làm thế giới riêng tư của chúng ta hoang tàn. Nếu không mở rộng được những mối quan tâm của chúng ta ra cả thế giới bên ngoài, chúng ta vẫn cứ là một tên lính trong pháo đài bị vây, biết rằng kẻ thù chặn đường thoát và chẳng chóng thì chày cũng phải đầu hàng. Trong một cuộc đời như thế chẳng có bình an mà chỉ có xung đột liên tục giữa dục vọng không ngừng và ý chí bất lực. Theo cách này hay cách khác, nếu muốn cuộc đời chúng ta to lớn và tự do, chúng ta phải thoát khỏi ngục tù và xung đột này.

Một cách trốn thoát là bằng chiêm nghiệm triết học.

Chính Trị Luận

Chính Trị Luận

Tác phẩm nổi tiếng viết về các khái niệm mà từ đó định hình các quốc gia và chính phủ. Mặc dù, Aristotle cổ vũ mạnh mẽ cho chế độ nô lệ lạc hậu, quan điểm của ông về Hiến pháp và cách điều hành chính phủ lại rất kinh điển. Dù chỉ thảo luận về nhà nước và các định chế thời Hy Lạp cổ nhưng tác phẩm này của ông đã đặt nền tảng cho khoa học chính trị hiện đại

Tác phẩm này được xem là căn bản cho Chính trị học Tây phương. Chính trị luận nghiên cứu các vấn đề cơ bản về nhà nước, chính quyền, chính trị, tự do, công bằng, tài sản, quyền, luật và việc thực thi luật pháp của các cơ quan thẩm quyền.

Aristotle là biểu tượng của trí tuệ tư duy triết học. Mặc dù nội dung rất sâu sắc nhưng cách trình bày của ông lại rất dễ hiểu. Ông viết những suy nghĩ của mình một cách rõ ràng với độ chính xác siêu phàm. Học thuyết của ông có ảnh hưởng lớn đến những lĩnh vực hiện đại như : khoa học, chủ nghĩa duy thực và logic học

Theo Aristotle, là một người tốt không thôi chưa đủ. Nếu người dân tốt mà không tích cực tham gia vào đời sống chính trị của chế độ thì chế độ đó có cơ nguy trở thành thoái hóa và trở thành một chế độ xấu. – Dịch giả Nông Duy Trường

Cùng danh mục

Leave a Reply / Feedback

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button